Phát triển cộng đồng ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng các tiếp cận trong bối cảnh mới

Phát triển cộng đồng ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng các tiếp cận trong bối cảnh mới

Phát triển cộng đồng ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng các tiếp cận

trong bối cảnh mới

TS. Trịnh Văn Tùng. CN. Nguyễn Thu Trang

Khoa Xã hội học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc Gia Hà Nội

* Mở đầu

Phát triển cộng đồng là một phương pháp thực hành Công tác xã hội phổ biến đã được vận dụng và triển khai tại nhiều địa bàn trên cả nước trong nhiều thập kỷ. Trải qua quá trình biến đổi phức tạp của bối cảnh lịch sử, các cách tiếp cận phát triển cộng đồng tại Việt Nam cũng có những biến chuyển về xu hướng. Trong điều kiện và định hướng chuyên nghiệp hóa Công tác xã hội, một câu hỏi đặt ra là: Thực trạng các cách tiếp cận phát triển cộng đồng tại Việt Nam hiện nay như thế nào và định hướng tiếp cận phát triển cộng đồng ra sao trong bối cảnh mới? Với mục tiêu đó, bài viết này hướng đến làm rõ những cách hiểu khác nhau hiện nay về cách tiếp cận phát triển cộng đồng, các cách tiếp cận phát triển cộng đồng đã và đang vận dụng trên thế giới và cụ thể tại Việt Nam, xu hướng vận dụng và biến đổi của chúng,… Tất cả sẽ nhằm hướng đến củng cố một hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn cho thực hành phát triển cộng đồng hiệu quả hơn ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ kinh tế xã hội và sự củng cố theo hướng chuyên nghiệp hóa của Công tác xã hội nước nhà.

1. Khái quát về cộng đồng và cách tiếp cận phát triển cộng đồng

Trước hết, để có cái nhìn khái quát về các cách thức tiếp cận cộng đồng, chúng ta cần có nhận thức chung đồng nhất về những khái niệm cơ bản liên quan:

Khái niệm cộng đồng: Có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng tựu chung, khái niệm này bao hàm những tiêu chí chính sau:

ü Đơn vị hành chính, lãnh thổ

ü Sự liên hệ lẫn nhau, chia sẻ nền tảng chung (văn hóa, tôn giáo, chủng tộc,…)

ü Chia sẻ mối quan tâm chung về những vấn đề cụ thể (nghèo đói, tệ nạn xã hội, trẻ em lao động sớm, ô nhiễm môi trường, khan hiếm nguồn nước, thất học, bệnh tật…)

ü Nghĩa vụ và trách nhiệm

Khái niệm phát triển cộng đồng: khái quát chung, phát triển cộng đồng được hiểu là thông qua sự thúc đẩy công bằng trong các cơ hội; sự tham gia vào xã hội; nhân quyền; tôn trọng sự đa dạng; dân chủ; tiếp cận phát triển cộng đồng để nhằm vào các mục tiêu:

ü Củng cố sự gắn kết trong cộng đồng

ü Xây dựng mạng lưới xã hội

ü Thiết lập tổ chức của chính mình

ü Tạo ra năng lực dài hạn cho giải quyết vấn đề

Và những mục tiêu này đều hướng tới mục đích thay đổi xã hội theo hướng tích cực hơn. Đây là một khái niệm đề cập tới:

ü Tái cấu trúc kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội

ü Tăng cường và đạt đến sự bền vững chất lượng cộng đồng và xã hội nói chung

ü Phát triển khả năng của cộng đồng để đạt được sự duy trì và hành động

ü Trao quyền tạo sự tham gia tích cực của người dân nhằm đạt được sự thay đổi

Yếu tố then chốt trong phát triển cộng đồng chính là trao quyền cho chính cộng đồng đó để đạt đến các mục tiêu thay đổi tích cực. Điều này đã định hình cho các cách thức tiếp cận cộng đồng khác nhau.

Vậy thì, tương ứng với khái niệm phát triển cộng đồng nêu trên, cách tiếp cận phát triển cộng đồng được hiểu như thế nào? Thực tế, qua thời gian, một số cách tiếp cận/mô thức khả thi về phát triển cộng đồng được phát triển. Mặc dù có vài chỗ chồng lấn lên nhau trong các định nghĩa, nhưng về cơ bản, “cách tiếp cận” là khái niệm chỉ ra rằng trong khi có những khác biệt trong cách thay đổi đời sống của một cộng đồng, chúng không hòan tòan dị biệt và khác nhau. Mặc dù có sự khác biệt, tất cả các cách tiếp cận tập trung vào:

ü Củng cố nguồn lực trong một cộng đồng

ü Phát triển sự liên quan và tiếp cận nguồn lực cho các thành viên cộng đồng

ü Phát triển năng lực của các thành viên cộng đồng để sử dụng các nguồn lực

Về cơ bản, các cách tiếp cận khác nhau ở các vấn đề: (1) Những người khác nhau liên quan tới hoạt động; (2) Những người khác nhau cần thay đổi cho những mục tiêu cần đạt đến; (3) Các kết quả khác nhau của hoạt động; (4) Các mục tiêu cụ thể đem đến những mục tiêu tổng quát. Cũng chính bởi vậy, một cách để tìm ra cách tiếp cận tốt nhất để thống nhất mục tiêu là kiểm tra câu hỏi về: Ai cần thay đổi? Những ai nên liên quan tới thúc đẩy những thay đổi cần có? Khái niệm các hệ thống thay đổi được sử dụng trong phạm vi này nhằm hỗ trợ việc chọn lựa cách tiếp cận (R.Lippitt, 1950)

Tóm lại, trong tìm kiếm và vận dụng cách tiếp cận phát triển cộng đồng phù hợp, chúng ta quan tâm tới các hệ thống thay đổi, hay còn gọi là các hệ thống liên quan đến quá trình thay đổi, bao gồm:

ü Hệ thống thân chủ hay hệ thống chủ thể hành động

ü Hệ thống tác nhân thay đổi (nhân viên công tác xã hội, các tổ chức thuê/tài trợ nhân viên công tác xã hội,…)

ü Hệ thống mục tiêu (thuộc những người có thể giúp mang lại những thay đổi như nhà hoạch định chính sách, những người gây quỹ, các chủ đất, những nhà hoạch định chính sách tại các tổ chức, chủ doanh nghiệp…)

ü Hệ thống hành động (thuộc những người liên quan tới hệ thống tác nhân thay đổi trong nhận diện vấn đề đã đưa ra một kế hoạch hành động và triển khai hành động. Hệ thống này có thể bao gồm: những người từ hệ thống thân chủ, những người từ hệ thống mục tiêu, những người từ hệ thống hỗ trợ,…)

ü Hệ thống hỗ trợ (Những người và tổ chức cho phép huy động nguồn lực, vật chất hay tinh thần, hỗ trợ nhu cầu và nỗ lực đem đến sự thay đổi như các tổ chức quan tâm tới sự phát triển của cộng đồng, chẳng hạn phòng khám sức khỏe địa phương, trường đại học, chủ doanh nghiệp địa phương, một cơ quan tôn giáo,…)

ü Hệ thống vốn có (Các nhóm và tổ chức xung quanh và có thể gây ảnh hưởng như các chủ doanh nghiệp địa phương, các nhóm khác có tiềm năng ảnh hưởng bởi thay đổi được lập kế hoạch, các cam kết chính trị và những nhà ra quyết định,…)

ü Các bên liên quan (Bất cứ ai quan tâm tới tình thế và có thể chịu ảnh hưởng bởi bất cứ thay đổi nào. Các bên liên quan có thể là một phần của một hay vài hệ thống nào đó liên quan đến quá trình thay đổi)

2. Những cách tiếp cận cộng đồng cơ bản hiện nay

Như vậy, có nhiều yếu tố chúng ta cần quan tâm trong xây dựng, lựa chọn và ứng dụng các cách tiếp cận cộng đồng. Có rất nhiều cách phân loại cách tiếp cận phát triển cộng đồng, nhưng trong giới hạn bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến 2 cách tiếp cận phát triển cộng đồng chủ yếu tại Việt Nam. Đó là cách tiếp cận mang tính chủ quan của chuyên gia (các nhà nghiên cứu, thực hành phát triển cộng đồng,…): cách tiếp cận độc đoán “từ trên xuống/top-down”; và cách thức thứ hai, một cách tiếp cận “từ dưới lên/bottom-up”.

Cách tiếp cận “top-down” khá phổ biến trong giai đoạn trước nhưng ngày nay đang dần được thay thế hoặc phối hopự với cách tiếp cận “bottom-up” mới. Cách tiếp cận “top-down” này chủ yếu vận dụng kiến thức chuyên gia mà thiếu đi sự tận dụng nguồn lực cộng đồng. Kiến thức bản địa của cộng đồng, do đó, cũng không được chú trọng, nhu cầu của cộng đồng không được điều tra kỹ lưỡng và đặt ở trọng tâm can thiệp. Thay vào đó, các chuyên gia với kiến thức chuyên môn và được đào tạo bài bản sẽ tham gia những công đoạn chính như xây dựng kế hoạch, giám sát thực hiện hoạt động,… Tính năng động của cộng đồng do vậy không được phát huy.

Ngược lại, cách tiếp cận “bottom-up” hiện đang được chú trọng như một xu hướng mới. Theo Angelika Kruger (2009), cách tiếp cận “bottom-up” hướng tới:

ü Tăng cường sức mạnh và hiệu quả của đời sống cộng đồng và xây dựng vốn xã hội

ü Tăng cường điều kiện địa phương, đặc biệt với những người trong tình huống bất lợi, và vượt qua những sự loại trừ xã hội

ü Tạo điều kiện cho người dân tham gia vào việc ra quyết định công khai và đạt được sự kiểm soát dài hạn lớn hơn vượt qua những phong tục của họ

Cách tiếp cận này tập trung vào miêu tả và hiểu về tình thế địa phương, đánh giá nhu cầu và nhận diện vấn đề, thiết lập mạng lưới và quan hệ cộng tác để các thành viên cộng đồng có cơ hội và hỗ trợ cho các hành động tập thể trong khi hoạt động và hành động địa phương trở thành tự điều hành và tự quản lý. Điểm quan trọng mấu chốt trong cách tiếp cận này là các thành viên của cộng đồng có cơ hội và hỗ trợ cho sự phát triển và/hoặc tập huấn cá nhân. Việc lập kế hoạch và ra quyết định rõ ràng và sự tham gia được mở rộng cho các thành viên trong cộng đồng, huy động tất cả các khu vực của cộng đồng. Nó là một cách tiếp cận tích cực và đang trở thành một xu hướng do bao hàm các cam kết về công bằng và sự tham gia đầy đủ, – nhận diện tuổi, giới, xu hướng tình dục, tôn giáo, văn hóa, khuyết tật, nghèo đói, dân tộc… tất cả các thành viên của cộng đồng có cơ hội để đóng góp cho thiết kế và cung cấp chính sách và dịch vụ.

3. Thực trạng và xu hướng áp dụng cách thức tiếp cận phát triển cộng đồng trong bối cảnh Việt Nam từ khi “Đổi mới”

v Khái quát về bối cảnh Việt Nam sau Đổi mới 1986

Nền kinh tế thị trường tồn tại ở Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới năm 1986 và bắt đầu đưa đến những biến đổi về chất trong xã hội Việt Nam. Đổi mới là một chương trình cải cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa…

Trước năm 1986, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế tập trung tương tự nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước.

Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Tăng trưởng GDP 8,5% vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999. Tăng trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hóa nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.

226_11_day-nghe
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007, tình hình kinh tế xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển. Ước tính cả năm 2011, tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 674,5 nghìn tỷ đồng, tổng chi ngân sách Nhà nước đạt 796 nghìn tỷ đồng. Như vậy, tổng thu ngân sách Nhà nước vượt khoảng 13,4% so với dự toán, tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010 và cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 11/NQ-CP (7-8%), góp phần làm giảm bội chi ngân sách Nhà nước xuống còn khoảng 4,9%, thấp hơn kế hoạch đề ra là 5,3%. Thu ngân sách Nhà nước vượt kế hoạch, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu, trả nợ. Đến hết năm 2011, ước dư nợ công khoảng 54,6% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 43,6% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 41,5% GDP, nằm trong giới hạn an toàn an ninh tài chính quốc gia. Tăng trưởng GDP năm 2011 đạt khoảng 5,9% là mức tăng khá cao trong điều kiện phải tập trung kiềm chế lạm phát.

Bên cạnh đó, vẫn tồn tại những hạn chế, yếu kém cần phải tiếp tục khắc phục. Kinh tế vĩ mô chưa thật sự ổn định; lạm phát và lãi suất tín dụng tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao; nợ xấu của hệ thống ngân hàng có dấu hiệu tăng lên, thanh khoản của một số ngân hàng thương mại gặp khó khăn; áp lực đối với tỷ giá còn lớn; thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản giảm sút. Sản xuất kinh doanh nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn với tồn kho ở mức khá cao, nhất là vào cuối quý III và đầu quý IV.

Đời sống của nhân dân, nhất là người nghèo, người lao động có thu nhập thấp, công nhân ở các khu công nghiệp, các đối tượng chính sách xã hội và đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi. Ùn tắc và tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng còn khá nghiêm trọng[1].

Qua những mô tả và phân tích đặc trưng của bối cảnh xã hội trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế kể trên, chúng ta có thể thấy được những điểm chung và điểm riêng của xã hội Việt Nam trong một bức tranh phát triển toàn cầu. Với những điểm đặc thù này, rõ ràng nền Công tác xã hội Việt Nam nói chung cũng như những triết lý Công tác xã hội Việt Nam nói riêng sẽ có những biến đổi tương thích với bối cảnh này.

v Xu hướng lựa chọn và ứng dụng cách tiếp cận phát triển cộng đồng tại Việt Nam sau Đổi mới

Phát triển cộng đồng tại Việt Nam chủ yếu tập trung tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, những khu vực nghèo. Và thực tế cho thấy, thời kỳ trước và sau Đổi mới, những năm Công tác xã hội chưa được chính thức thừa nhận như một nghề chuyên nghiệp tại Việt Nam, cách tiếp cận phát triển cộng đồng phổ biến vẫn là “top-down”, tức là dựa vào năng lực chuyên môn của chuyên gia là chính, thay vì dựa vào nội lực của cộng đồng.

Trước đây và hiện nay, khi đề cập đến phát triển nói chung và phát triển nông thôn nói riêng, các nhà hoạch định chính sách và nghiên cứu về phát triển nông thôn thường tập trung vào giải quyết các vấn đề khó khăn và nhu cầu của cộng đồng cư dân nông thôn, nên họ cố gắng tìm các giải pháp để bù đắp cho sự thiếu hụt đó. Ví dụ có thể nêu ra ở đây là Chương trình xoá đói giảm nghèo 134, 135 của Chính phủ. Từ quan điểm như vậy, người dân nông thôn được xem như những “khách hàng” nhận những hỗ trợ từ bên ngòai đưa tới và là “người tiêu dùng” – tiêu thụ những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ đó. Vì vậy, nơi nào càng nghèo thì càng được quan tâm và nhận được nhiều hỗ trợ nên thay vì phấn đấu trở thành “tự lực phát triển” thì các địa phương thường có xu hướng phấn đấu trở thành “địa phương nghèo” và người dân thì phấn đấu trở thành “hộ nghèo” và “người nghèo” (Sub-NIAPP, 2006).

Vừa mới đây, phương pháp phát triển dựa vào nhu cầu (needs based development) được các nhà tài trợ áp dụng rộng rãi trong các dự án phát triển nông thôn tại Việt Nam. Tại các vùng dự án này, người dân vô hình dung đã rằng họ có thể xây dựng cộng đồng của họ bằng việc liệt kê sự thiếu thốn thông qua việc điều tra nhu cầu. Áp dụng phương pháp này, Việt Nam cũng như nhiều nước khác, thay vì chú ý tập trung vào khai thác nội lực và khả năng nội tại của người dân nông thôn thì các nhà tài trợ thường chú ý vào việc điều tra nhu cầu, phân tích hiện trạng để phát hiện những vấn đề cần làm cho nông thôn và người dân sinh sống ở nông thôn (Sub-NIAPP, 2006).

Thế nhưng, sau Đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam diễn ra nhiều thay đổi toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là sự phát triển của nghề Công tác xã hội. Giữa bối cảnh kinh tế xã hội biến đổi rõ rệt, nhanh chóng, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, sự du nhập kiến thức mới ngày càng mở rộng, các nền tảng triết lý của Công tác xã hội được xem xét lại và đề cao, cách tiếp cận phát triển cộng đồng cũng vì thế chuyển dịch dần từ “top-down” sang “bottom-up”, tức là coi trọng con người và các giá trị tự thân của họ, coi họ là nhân tố chính của những thay đổi. Trong cách tiếp cận “bottom-up” này, phương pháp tiếp cận ABCD (Assets based for community development) là một phương pháp chủ đạo. ABCD là phương pháp nghiên cứu và thực hành phát triển cộng đồng dựa vào nội lực của cộng đồng với các nguyên tắc chính:

ü Đánh giá cao và huy động khả năng, năng lực và năng khiếu của mỗi thành viên trong cộng đồng và nguồn lực nội tại để phát triển chính cộng đồng đó.

ü Phát triển được định hướng bởi chính người dân sinh sống tại cộng đồng: thôn, ấp, làng xã hơn là phát triển do định hướng được khởi xướng từ những người bên ngoài.

Để thực hiện điều này, người dân trong cộng đồng chuyển dịch dần từ hướng tham gia thụ động, tham gia thông qua việc cung cấp thông tin sang tham gia như nhà tư vấn, tham gia trong việc thực hiện, tham gia trong quá trình ra quyết định, tham gia tự nguyện.

Để làm rõ hơn điều này, trong giới hạn bài viết này, chúng tôi xin trích dẫn một báo cáo tóm lược của tiến trình phát triển cộng đồng theo hướng “bottom-up” với phương pháp ABCD để phát huy sức mạnh cộng đồng trong công trình xây dựng cầu đường tổ 17, phường 9, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh năm 1995.

Tóm lược tiến trình phát triển cộng đồng trong công trình xây dựng cầu đường tổ 17, phường 9, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh năm 1995

· Khái quát bối cảnh xã hội

– Tổ 17, phường 9, quận 3 gồm 104 ngôi nhà, trong đó 9/10 hộ dân nằm trên kênh Nhiêu Lộc, đa phần là hộ nghèo chủ yếu lao động phổ thông.

– Dân số đông đúc, thu nhập thấp và không ổn định

· Cơ sở hình thành dự án phát triển cộng đồng

– Con đường cầu quá cũ, ván mục nát, một số đoạn đường bị đổ bể, gây khó khăn cho đi lại của người dân. Đã có nhiều cụ già, em nhỏ bị ngã xuống kênh khiến cộng đồng lo âu.

– Ban lãnh đạo và các đoàn thể trong tổ đã đề xuất ý kiến xây dựng, tu sửa cầu dựa trên nhu cầu và nguyện vọng của người dân.

– Đảng Ủy, UBND phường 9, Sở Nhà đất cùng tổ chức CIDSE đồng ý hỗ trợ và cho vay trả góp với tinh thần Nhà nước và nhân dân cùng làm với vốn ban đầu 4.000.000 VNĐ.

· Tiến trình phát triển cộng đồng dựa trên khai thác nội lực cộng đồng

1. Giai đoạn chuẩn bị

– Chị Nguyễn Thị Bi, tổ trưởng tổ dân phố 17 đại diện tổ dân phố kí đơn xin vay vốn và hứa trả trong vòng 6 tháng.

– Chị Nguyễn Thị Bi cùng anh Trần Mạnh Hùng (tổ phó tổ dân phố) thăm dò ý kiến người dân và chuẩn bị kế hoạch vận động.

– Họp dân lần 1: trình bày về dự án với dự trù kinh phí 17.065.000 VNĐ. Trong buổi này, cộng đồng chủ động cùng tính tóan và lên dự trù chi tiết.

– Chuẩn bị cuộc họp lần 2: cùng tổ phó tổ dân phố huy động tổ phụ lão lên kế hoạch chi tiết với UBND phường và Sở nhà đất.

– Họp dân lần 2: thu thập cam kết của người dân quyết tâm tham gia dự án với 40 hộ gia đình đăng ký vay nợ trả góp. Đồng thời thành lập ban quản lý công trình với tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố, anh Hùynh Tiến Sỹ – thanh niên trong cộng đồng có tay nghề cao về xây dựng, lãnh đạo tổ phụ lão, đại diện công an phường. Tuy nhiên, trở ngại đặt ra là một số hộ ở sâu trong khu dân cư không muốn đóng góp do con đường không vào tới nhà họ.

2. Huy động lực lượng thi công

– Ban quản lý công trình huy động tất cả lực lượng lao động trong tổ 17 và tòan bộ những hộ tham gia công trình (chủ yếu là thanh niên) trên tình thần tự nguyện.

– Tiến hành họp dân lần 3 để cộng đồng cùng bàn bạc và phân công lao động, cho họ thấy được vai trò của mình và khả năng phát huy tay nghề của bản thân. Đại đa số người dân nhất trí cao và cử anh Hùynh Tiến Sỹ chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật công trình do tay nghề cao, được cộng đồng tín nhiệm. Anh Sỹ là một thanh niên trong tổ nên khi anh tham gia đã huy động nhiều thanh niên khác cùng tham gia xây dựng công trình.

– Khi bắt đầu thi công, 20 hộ gia đình ở phía sau hẻm xin đăng ký cùng tham gia xây cầu khi thấy lợi ích của công trình. Tổng số hộ tham gia đóng góp xây dựng cầu bằng cách ký đơn xin vay vốn là 60 hộ.

3. Giai đoạn thi công

– Họp với các thành viên trực tiếp tham gia xây dựng công trình để thống nnhất cách thức thi công: Sáng – Các phụ lão cùng nhóm hậu cần chuẩn bị tháo gỡ cốt pha, ghép cốt pha, trộn và tập kết vật liệu; Chiều – sau 4 giờ, nhóm thanh niên đi làm về tiến hành thi công theo cách cuốn chiếu. Tổ phụ lão giám sát công trình từ mua vật liệu đến kỹ thuật đổ bê tông.

– Những gia đình không có thanh niên tự nguyện mua bánh kẹo, thuốc lá, chè,… để bồi dưỡng cho nhóm thi công.

4. Vận động thu tiền trả góp

– 60 hộ đã ký đơn xin vay vốn để xây dựng cầu, mỗi hộ ký vay 60.000 VNĐ với thời hạn trả 6 tháng.

– Do đặc thù đa phần hộ nghèo, tổ trưởng tổ dân phố thu dần theo từng tuần, từng tháng, ít nhất 2000 VNĐ/lượt. Cộng đồng tự giác nộp và cảm thấy thoải mái với sự đóng góp của mình.

· Kết quả đạt được

– Sau 2 tháng thi công, chiếc cầu hòan tất, dài 5m, rộng 1,2m, tổng chi phí 17.065.000 VNĐ

– Đánh giá của thành viên cộng đồng rất tích cực:

“… làm xong chiếc cầu, lấy chỗ đi lại cho nhân dân” (tổ trưởng tổ dân phố 17)

“Càng làm càng thấy bà con tự giác nên tôi càng hăng hái theo. Chiếc cầu thực sự làm cho người dân có trách nhiệm với nhau hơn” (đại diện hội phụ lão)

“Qua công trình này tôi thấy bà con trong tổ đoàn kết, gắn bó với nhau, có trách nhiệm với nhau hơn. Họ bỏ tiền và công sức ra nên họ có ý thức bảo quản cầu” (đại diện nhóm thi công)

“Đây chính là phương thức tốt đề hỗ trợ các cộng đồng nghèo phát triển” (Chủ tịch phường 9)

Như vậy, qua ví dụ trên, chúng ta thấy được hiệu quả tích cực của phương pháp phát triển cộng đồng ABCD cũng như của cách tiếp cận “bottom-up” trong phát triển cộng đồng. Thực tế, đôi khi chúng ta sử dụng kết hợp nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy vào từng hòan cảnh nhưng cách tiếp cận “bottom-up” này đang trở thành xu hướng nổi bật do đã khai thác được nội lực của chính cộng đồng, coi trọng giá trị con người, đề cao cộng đồng như trung tâm của sự thay đổi và là tác nhân chính tạo ra thay đổi. Bởi vậy, cách tiếp cận này đáp ứng nhu cầu đủ của mỗi con người trong phát triển và khẳng định bản thân, giúp tạo ra sự bền vững cho các dự án phát triển cộng đồng.

* Kết luận

Thực tế, ở Việt Nam, có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong phát triển cộng đồng căn cứ vào từng tiêu chí sắp xếp. Tuy nhiên, xét về chiều hướng tiếp cận, có thể phân ra hai cách tiếp cận chính: tiếp cận từ nội lực cộng đồng (bottom – up) và tiếp cận chủ quan của chuyên gia (top – down). Hướng tiếp cận áp đặt của các chuyên gia vốn được ứng dụng nhiều trong giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới mạnh mẽ, phát triển nhanh chóng tăng trưởng kinh tế với tốc độ xóa đói giảm nghèo nhanh của nước có thu nhập trung bình thấp, các hướng tiếp cận lấy con người làm trọng tâm ngày càng có chỗ đứng trong công tác trợ giúp chuyên nghiệp. Do đó, hướng tiếp cận dựa vào nội lực hay còn gọi là tiếp cận nhu cầu với phương pháp ABCD (Assets based for community development) với đặc trưng trao quyền cho cộng đồng, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cộng đồng cũng như tính bền vững ngày càng được chú trọng thay vì cách tiếp cận cũ. Đây cũng được xem là xu hướng chủ yếu của phát triển cộng đồng trên thế giới. Để phát huy tốt phương pháp phát triển cộng đồng dựa vào nội lực, chúng tôi xin đề xuất những từ khoá sau đây và coi chúng như là hệ giá trị cho các phương pháp tiếp cận chung: “Dân biết, Dân bàn, Dân quyết định, Dân làm, Dân kiểm tra và Dân được hưởng”. Thiết nghĩ, điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo ra cơ chế làm sao để hệ giá trị ấy được phát huy tối đa.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thanh Hà, (2010), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với các vấn đề xã hội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Đổi mới Công tác xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”

2. Nguyễn Kim Liên (2008), Giáo trình phát triển cộng đồng, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Oanh (2000), Phát triển cộng đồng, thành phố Hồ Chí Minh.

4. Phạm Quốc Trụ, (2011), Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.

5. Phạm Hùynh Thanh Vân (2007), Kỹ năng phát triển cộng đồng, An Giang.

6. Báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ và tình hình kinh tế- xã hội năm 2011

7. Angelika Kruger (2009), Approach to community development, Youth Empowerment partnership programme/YEPP.

8. Catherine Briscoe (2009), Community development, VSO.

[1] Báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ và tình hình kinh tế- xã hội năm 2011

comment No comments yet

You can be first to leave a comment

mode_editLeave a response

Your e-mail address will not be published. Also other data will not be shared with third person. Required fields marked as *

menu
menu